Công việc thiết kế đòi hỏi có sự am hiểu cao
về in ấn. Nó sẽ giúp hạn chế đầy rẫy các rủi ro cho in ấn. Bài viết
chuyên sâu về các kỹ thuật trước khi in được đăng tải trên tạp chí in ấn
sẽ giúp chúng ta tiết kiệm rất nhiều chi phí và nâng cao chất lượng in
ấn.
Trong thực tế như thống kê của Viện kỹ thuật
Rochester, có đến 78% file của khách hàng gởi đến nhà in chưa phù hợp
cho việc in ấn. Dưới đây là một số lưu ý cho các nhà thiết kế. Đây là
những hiểu biết cơ bản về chế bản hoặc là những kiến thức thông thường,
chúng sẽ rất hữu dụng cho bạn trước khi thực hiện công việc in tác phẩm
của mình, chúng sẽ giúp bạn tránh những lỗi đôi khi gây rất tốn kém.
- Lên kế hoạch: Cần phải lên kế hoạch công việc của bạn. Đừng quên rằng
việc xuất phim (hoặc ghi bản), phơi bản, in và thành phẩm sẽ mất rất
nhiều thời gian. Nếu bạn thực hiện không đúng kế hoạch điều đó không có
nghĩa là nhà in phải tăng tốc để kịp tiến độ cho bạn. Các máy in đều làm
việc với một lịch dày đặc, các tờ in phải có thời gian để khô và nếu
chế bản gặp sự cố, nó phải mất rất nhiều thời gian để mọi việc trở lại
trật tự.
- Kiểm tra lỗi: thông thường khách hàng
sẽ kiểm tra bản in thử mà bạn in ra, nhưng thường họ chỉ đọc lướt qua
nên có thể sẽ bỏ sót lỗi. Tốt nhất bạn phải là người tự kiểm tra lỗi cho
tất cả các tài liệu của mình.
- Trapping: trapping là kỹ thuật dùng để
giảm thiểu sai số chồng màu trong quá trình in. Hoặc là bạn sẽ tự làm
điều này và thông tin cho nhà in biết, hoặc là bạn để cho họ thực hiện
việc trapping. Trapping vừa là kỹ năng vừa là nghệ thuật. Đừng đánh giá
thấp công việc này, đôi khi nó sẽ làm cho bạn phải trả giá.
- Phần mềm (Software): nên sử dụng những
phần mềm ứng dụng quen thuộc của nhà in như: PageMaker, QuarkXpress,
Illustrator, Freehand, CorelDraw, Photo-shop, Indesign. Nên thảo luận
trước với nhà in nếu bạn có sử dụng những phần mềm ứng dụng khác. Mặt
khác hãy nên sử dụng các phần mềm ứng dụng cho đúng tác vụ, chẳng hạn
như sử dụng PageMaker hoặc QuarkX-press cho công việc dàn trang.
Illustrator, Freehand,
CorelDraw phù hợp cho các công việc vẽ các
đối tượng đồ họa hoặc thiết kế những trang đơn. Còn về công việc xử lý
ảnh, Photoshop là phần mềm thích hợp nhất.
- Đặt tên file: tài liệu của bạn có thể
được xử lý trong các chương trình ứng dụng khác nhau chạy trên những hệ
điều hành khác nhau để bình bản, xuất ra phim hay ra bản. Mỗi hệ điều
hành hoặc chương trình ứng dụng có những quy luật riêng của nó gắn liền
với tên file. Để tránh những vấn đề khó khăn cần phải đổi tên file hoặc
không thể đọc được, không nên đặt tên file dài quá 25 ký tự, sử dụng dấu
gạch dưới thay vì dùng khoảng trắng nếu bạn muốn phân tách các từ trong
tên file. Đừng bao giờ bắt đầu hoặc kết thúc tên file với khoảng trắng,
dấu / hoặc \ hoặc dấu : trong tên file. Tránh việc dung nhiều hơn một
dấu chấm (.) trong tên file.
CÁC LƯU Ý KHI THIẾT LẬP THUỘC TÍNH TÀI LIỆU
- Kích thước trang (khổ thành phẩm): phải kiểm tra chắc chắn rằng bạn
đang thiết lập chính xác kích thước trang tài liệu (khổ thành phẩm) theo
yêu cầu của khách hang và cũng đã thiết lập khoảng cắt xén cho các
trang tài liệu, đừng tùy tiện mà nên thiết lập một trị số thống nhất ví
dụ như 5mm chẳng hạn.
- Font true type của Corel Draw: tránh sử
dụng font true type của các phiên bản Corel cũ (ví dụ 3.0 chẳng hạn).
Một vài font của chúng đã bị hư, một số khác trông rất xấu ở co chữ lớn.
- Vấn đề về việc chọn font trên thanh
thuộc tính font (type style menu): nếu bạn sử dụng máy Macintosh, đừng
chọn font theo cách này mà nên chọn theo tên của nó. Ví dụ để chọn font
helveltica đậm, bạn chọn font có tên ‘helveltica bold’ chứ đừng chọn
font ‘helveltica’ rồi chọn thuộc tính bold. Một vài chương trình ứng
dụng không hiển thị tên của tất cả các font, trong trường hợp đó, bạn có
thể sử dụng cách thiết lập thuộc tính nếu bạn chắc chắn rằng font đó có
tồn tại. Việc chọn một thuộc tính font không tồn tại có thể gây rắc rối
cho bạn khi bạn nhận được font trên ấn phẩm in không hoàn toàn giống
với ý bạn muốn (ví dụ bạn chọn thuộc tính bold (đậm) nhưng bạn có thể
nhận được thuộc tính italic (nghiêng) chẳng hạn nếu thuộc tính bold bạn
chọn không có trong font chữ).
- Font outline: tránh sử dụng các thuộc
tính outline từ QuarkXpress và các chương trình ứng dụng khác. Chúng
trông rất đẹp trên màn hình, nhưng thỉnh thoảng lại xuất ra không đúng
như thế.
- Nên tránh chuyển văn bản từ hệ điều
hành này sang hệ điều hành khác nếu thật sự không cần thiết (ví dụ từ
Mac sang PC hay ngược lại), điều này có thể gây một số khó khăn và một
vài thay đổi, thậm chí với các font có cùng tên.
- Thiết lập màu sắc cho văn bản: đừng
thiết lập màu sắc cho các văn bản có co chữ quá nhỏ (nhỏ hơn co 8pt)
nhiều hơn hai màu để tránh vấn đề khó khăn khi in chồng màu các đối
tượng quá nhỏ.
KHUNG, NỀN VÀ ĐƯỜNG KẺ
- Hairline: một vài chương trình ứng dụng có thể thiết lập bề dày của
đường là “hairline”. Đừng bao giờ sử dụng trị số này mà nên luôn luôn
thiết lập một trị số xác định cho bề dày của đường, ví dụ như 0,25 pt
chẳng hạn. Trị số hairline có nghĩa là đường kẻ sẽ được thiết lập một bề
dày nhỏ nhất mà thiết bị có thể “vẽ” được. Đối với máy in laser với độ
phân giải 300 dpi hoặc 600 dpi thì không có vấn đề gì, nhưng đối với một
thiết bị ghi với độ phân giải 2400 dpi thì đường kẻ này sẽ mảnh đến mức
mà mắt người khó lòng có thể trông thấy được. Độ dày mảnh nhất của
đường kẻ mà bạn có thể dùng tùy thuộc vào máy in, loại giấy in…, tuy
nhiên nói chung, bạn không nên thiết lập bề dày một đường kẻ mảnh hơn
0,2 pt.
- Tổng lượng mực: tùy thuộc vào loại giấy
in, kiểu xử lý in và máy in để xác định tổng lượng mực là số lượng mực
tối đa mà đối tượng trên giấy có thể chứa được. Ví dụ nếu có tổng lượng
mực là 280, bạn có thể có một đối tượng trên trang chứa 70% cyan,
magenta, yellow và black, nhưng một sự pha trộn 100% cyan, 100% magenta,
70% yellow và 70% black sẽ có tổng lượng mực 340 là quá nhiều và có thể
gây bóng mặt sau.
- Tông nguyên (solid color): để tránh khó
khăn khi in các vùng nền màu tông nguyên không nên tạo chúng có kích
thước quá lớn, ngoại trừ trường hợp cần thiết.
- Tô màu cho đường kẻ mảnh: đừng tô màu cho đường kẻ mảnh từ hai màu trở lên.
HÌNH ẢNH LINE-ART
- Định dạng file: nên lưu hình ảnh với định dạng TIFF hoặc EPS. Không nên sử dụng các định dạng PICT, GIF hay BMP.
- Xoay đối tượng: không nên xoay một hình
ảnh đồ họa trong chương trình dàn trang nếu bạn vẫn còn sử dụng RIP
Postscript cấp độ 1 (Postscript level 1). Điều này sẽ làm giảm tốc độ
rip rất nhiều.
- Độ phân giải: hãy chắc chắn rằng hình
ảnh có kích thước và độ phân giải đúng khi quét. Một hình ảnh đồ họa
(Line-art) phải có độ phân giải từ 800 đến 1.200 dpi, vì vậy nếu bạn
quét một cái logo và muốn phóng lớn nó trong chương trình dàn trang với
độ thu phóng là 300% thì bạn phải quét nó với độ phân giải từ 2.400 đến
3.600 dpi.
- Kích thước: đừng bao giờ thu phóng hình
ảnh lớn hơn 20% trong chương trình dàn trang, điều này sẽ làm giảm độ
phân giải của hình ảnh và dẫn đến một hiệu ứng gọi là hiệu ứng bậc thang
(staircasing).
HÌNH ẢNH ĐEN TRẮNG (GRAYSCALE IMAGES)
- Định dạng file: nên lưu hình ảnh với định dạng TIFF hoặc EPS. Không nên sử dụng các định dạng PICT, GIF hay BMP.
- Điểm sáng và điểm tối: điểm sáng nhất
trong hình ảnh đen trắng không nên là điểm 0% mà có ít nhất 2% tram.
Ngược lại điểm tối nhất không nên là điểm 100%. Cho tần số tram 133 hoặc
150 lpi, điểm tối thường thiết lập 95% tram. Cho in báo, điểm sáng có
5% tram và điểm tối có 80% tram thường được sử dụng nhất.
- QuarkXpress và TIFF: khi đặt các hình
ảnh TIFF trong QuarkXpress, hãy chắc chắn rằng không có màu nền trong
picture box được thiết lập là “None” để tránh việc tạo các rìa bậc thang
(staircasing còn gọi là jaggies) ở vùng biên của hình ảnh.
- Độ phân giải: hãy chắc chắn rằng hình
ảnh có kích thước và độ phân giải đúng khi quét. Độ phân giải của hình
ảnh thông thường = tần số tram x độ thu phóng x 2. Số “2” là trị số chất
lượng, sẽ có trị số biến thiên từ 1,6 đến 2,5 tùy thuộc vào chất lượng
mong muốn và tùy theo chủ đề của hình ảnh.
- Kích thước: đừng bao giờ thu phóng hình ảnh lớn hơn 20% trong chương trình dàn trang, điều này sẽ làm
- Việc đánh số trang: nên tuân theo quy luật: trang lẻ ở bên phải, trang chẳn ở bên trái.
- Chú ý khi thiết kế các tờ gấp: lưu ý
rằng trong tờ gấp không phải tất cả các trang đều có kích thước bằng
nhau. Các trang được gấp vào bên trong thường sẽ có kích thước nhỏ hơn
các trang bìa khoảng 2mm để tránh bị cộm cấn khi gấp.
- Dot gain (hiện tượng tăng tầng thứ
trong quá trình in): Các máy ghi thông thường sẽ được canh chỉnh
(calibrate) và thiết lập tầng thứ theo dạng tuyến tính. Điều đó có nghĩa
là nếu bạn tô một màu nền với 50% tram, bạn sẽ nhận được đúng 50% tram
trên phim hoặc trên bản. Tuy nhiên trong quá trình in thì không được như
vậy mà dưới áp lực in, sự hấp thụ mực của giấy và một vài hiệu ứng
quang học khác, vùng tram 50% mà bạn thiết lập có thể sẽ là 70% trên tờ
in. Người ta gọi đó là hiện tượng tăng tầng thứ trong quá trình in
(dotgain). Phần trăm thực sự của dot gain tùy thuộc vào giấy in, tốc độ
máy in, tần số tram, kiểu máy in, chất lượng cao su, người vận hành và
một số thông số khác. Nói chung trong in offset trên máy in phẳng, trị
số dot gain thường là vào khoảng từ 10 đến 16%. Cho in báo, dot gain có
thể lên đến 30%. Hầu hết các phần mềm máy quét đều có tính toán bù trừ
cho hiện tượng dot gain, tuy nhiên trong khi thiết kế bạn cũng nên tính
đến điều này, nhất là khi thiết lập các nền màu trong các ấn phẩm của
mình và đặc biệt khi chúng được in trên nhiều loại giấy và máy in khác
nhau.
VỀ MÀU SẮC
- Tài liệu 2 màu: nếu bạn sử dụng duotone trong một tài liệu 2 màu, góc
xoay tram của màu thứ hai nên khác với màu thứ nhất. Nhiều chương trình
ứng dụng như QuarXpress chẳng hạn, mặc định sử dụng góc xoay tram màu
đen cho các màu spot nhưng gần như các tài liệu 2 màu là sự pha trộn
giữa màu đen và một màu spot nào đó.
- Màu spot (màu pha riêng): nên sử dụng
các màu Pan tone “tiêu chuẩn”. Sử dụng màu các màu này sẽ rẻ hơn nhiều
so với việc sử dụng một màu đặc biệt mà chúng ta phải đặt hàng riêng
- Màu spot trong tài liệu CMYK: nếu bạn
sử dụng một số màu spot trong một tài liệu sẽ được in với 4 màu cơ bản
CMYK, bạn nên nhớ đánh dấu là màu process cho các màu này. Khi in, bạn
cũng có thể kiểm tra việc này đã được thực hiện chưa bằng cách chọn chức
năng ‘Separation’ trong hộp thoại in và xem có bao nhiêu bản sẽ được
in, nếu có màu spot chưa được chọn chế độ process, màu đó sẽ hiển thị
lên hộp thoại.
- Màu Red, Green, Blue trong XPress: đừng
bao giờ sử dụng các màu Red, Green, Blue trong QuarkXpress vì đó là các
màu trong hệ màu RGB.
- Màu trong chế độ overprint: trong hầu
hết các trường hợp, văn bản, đường kẻ và nền màu đen đều được in chồng
(overprint) lên màu nền. Tuy nhiên có một số trường hợp tính chất này
không có (thường xảy ra ở các phần mềm đồ họa), do đó bạn nên kiểm tra
tính chất này trước khi xuất file, nếu không bạn sẽ bị lé trắng trông
như hình dưới đây:
- Rich black (màu đen ngoài 100% đen còn
có them thành phần một số màu khác như màu Cyan, Magenta): cho các đối
tượng màu đen nhỏ, có một phần nằm trên một nền màu sáng, phần kia nằm
trên một nền màu tối hơn, thì cách tốt nhất là bạn nên sử dụng màu rich
black để tránh sự khác nhau giữa hai vùng màu như hình bên dưới. Thông
thường chúng ta sẽ thêm khoảng 40% màu cyan hoặc magenta vào 100% màu
đen.
- Thiết lập chế độ móc trắng (knock-out)
cho màu trắng: QuarkXpress có một thói quen khá phiền nhiễu là thường
“quên” bỏ chế độ overprint khi văn bản màu đen chuyển sang một màu khác,
do đó cần kiểm tra xem văn bản màu trắng có ở chế độ knock-out không.
- Chú ý khi đặt tên màu: khi đặt tên màu,
chú ý chỉ nên sử dụng trong 27 ký tự tiêu chuẩn trong bảng chữ cái, và
các ký tự số từ 0 đến 9. Nên sử dụng dấu gạch dưới thay vì khoảng trắng
nếu muốn ngăn cách các từ. Sử dụng dấu ngoặc bất kỳ loại nào đều gây vấn
đề lỗi postscript khi ripping.
VỀ VĂN BẢN VÀ FONT CHỮ
- Kiểu font: nên sử dụng font postscript type 1. Font true type có thể
trông đẹp hơn nhưng chúng có thể gây khó khăn một chút trong quá trình
xuất. Tránh sử dụng font Multi Master hay font postscript type 3 cũ,
chúng có thể gây một số vấn đề trong nhiều chu trình giảm độ phân giải
của hình ảnh và dẫn đến một hiệu ứng gọi là hiệu ứng bậc thang
(staircasing). Giảm kích thước hình ảnh quá nhiều cũng sẽ dẫn đến việc
mất độ sắc nét và độ tương phản.
HÌNH ẢNH MÀU (COLOR IMAGES)
- Định dạng file: nên lưu hình ảnh với định dạng TIFF, EPS hoặc DCS.
Không nên sử dụng các định dạng PICT, WMF hay BMP, các chương trình ứng
dụng dàn trang có thể chấp nhận các định dạng file này, nhưng việc
chuyển sang dữ liệu postscript trong quá trình in có thể không đảm bảo.
- QuarkXpress và TIFF: khi đặt các hình
ảnh TIFF trong QuarkXpress, hãy chắc chắn rằng không có màu nền trong
picture box được thiết lập là “None” để tránh việc tạo các rìa bậc thang
(staircasing còn gọi là jaggies) ở vùng biên của hình ảnh hoặc vùng
trắng bên trong hình ảnh sẽ biến mất.
- Độ phân giải: hãy chắc chắn rằng hình
ảnh có kích thước và độ phân giải đúng khi quét. Độ phân giải của hình
ảnh thông thường = tần số tram x độ thu phóng x 2. Số “2” là trị số chất
lượng sẽ có trị số biến thiên từ 1,5 đến 2,5 tùy thuộc vào chất lượng
mong muốn và tùy theo chủ đề của hình ảnh.
- Kích thước: đừng bao giờ thu phóng hình
ảnh lớn hơn 20% trong chương trình dàn trang, điều này sẽ làm giảm độ
phân giải của hình ảnh và dẫn đến một hiệu ứng gọi là hiệu ứng bậc thang
(staircasing). Giảm kích thước hình ảnh quá nhiều cũng sẽ dẫn đến việc
mất độ sắc nét và độ tương phản.
- Không gian màu: tất cả hình ảnh phải ở
hệ màu CMYK. Bạn có thể gặp một số vấn đề khó khăn hoặc về chất lượng
hình ảnh trong quá trình rip nếu hình ảnh ở hệ màu RGB hoặc Indexed.
HÌNH ẢNH VẼ (HÌNH ĐỒ HỌA – DRAWINGS)
- Định dạng file: nên lưu các hình đồ họa vẽ trong các chương trình đồ
họa như Illustrator, Freehand hoặc CorelDraw dưới định dạng EPS nếu nó
sẽ được đặt vào các phần mềm dàn trang như QuarkXpress hoặc PageMaker.
Không nên lưu dưới định dạng PICT hoặc CDR.
- Hiệu ứng lens và tiles trong CorelDraw:
nên tránh sử dụng hiệu ứng lens trong CorelDraw. Chúng có thể làm cho
file postscript khi in có kích thước rất lớn. Cách tốt nhất là nên
chuyển các đối tượng có hiệu ứng lens sang bitmap, điều này sẽ làm cho
quá trình ripping sẽ dễ dàng hơn. Không nên sử dụng hiệu ứng tiles cũng
với lý do tương tự, nếu chúng không được chuyển thành bitmap, các đường
trắng mảnh sẽ xuất hiện giữa các lớp tile.
- Illustrator 7.0: nếu bạn vẫn còn sử
dụng Illustrator 7.0 để tạo các ảnh vector, nên lưu chúng dưới định dạng
Illustrator 6. Hoặc bạn có thể nâng cấp lên phiên bản 7.02 đã sửa lỗi.
- EPS trong EPS: nên tránh việc đặt các
file đồ họa EPS vào bên trong một file đồ họa EPS khác (EPS-nesting).
Nên sử dụng lệnh “copy” và “paste” để cắt và dán một đối tượng đồ họa từ
file EPS này sang file EPS khác.
- Kích thước: nếu file đồ họa có chứa
hình ảnh bitmap, bạn không nên thu phóng file EPS này nhiều hơn 20%
trong chương trình dàn trang. Phóng lớn sẽ làm giảm độ phân giải của
hình ảnh và dẫn đến một hiệu ứng gọi là hiệu ứng bậc thang (staircasing)
và pixel hóa (pixelization). Giảm kích thước hình ảnh quá nhiều cũng sẽ
dẫn đến việc mất độ sắc nét và độ tương phản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét